Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế trong văn kiện Đại hội XII của Đảng
Trong thời kỳ bao cấp, chúng ta chủ yếu thừa nhận 2 thành phần
kinh tế cơ bản trong nền kinh tế, đó là kinh tế quốc doanh, sau này gọi là kinh
tế nhà nước và kinh tế tập thể. Từ Đại hội VI đến nay, Đảng quyết định chuyển
từ cơ chế kinh tế bao cấp sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN, thừa nhận nền kinh tế gồm nhiều thành phần kinh tế. Cùng
với kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, chúng ta từng bước thừa nhận kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài…
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”.

Kinh tế tư nhân tiếp tục được khuyến khích tạo thuận lợi phát triển
Khác với một số đại hội trước đây, trong văn
kiện Đại hội XII của Đảng không nêu cụ thể từng thành phần kinh tế, mà khẳng
định nền kinh tế nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Đây là cách thể hiện phù hợp với sự vận động linh hoạt của nền kinh tế. Bên
cạnh đó, Đảng tiếp tục khẳng định vai trò của hai thành phần kinh tế cơ bản đó
là: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế tư nhân là động lực quan
trọng của nền kinh tế. Điều này thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng ta đối
với thành phần kinh tế nhà nước, đồng thời nêu nhận thức mới về vai trò của thành
phần kinh tế tư nhân.
Đảng ta chủ trương không phân biệt đối xử giữa
các thành phần kinh tế: Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật. Đây là quan điểm nhất quán, xóa bỏ hẳn cơ chế
bao cấp, chuyển toàn bộ sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nội hàm của khái niệm kinh tế nhà nước được
diễn đạt rõ hơn, kinh tế nhà nước gồm nguồn lực nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước. Nguồn lực nhà nước bao gồm tài nguyên, đất đai, ngân sách nhà nước, các
quỹ dự trữ quốc gia,... cùng với các công cụ, cơ chế, chính sách được Nhà nước
sử dụng để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Như vậy, khái niệm doanh nghiệp nhà nước không đồng nhất với kinh tế nhà
nước, mà doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế nhà nước. Do đó,
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo vẫn là quan điểm nhất quán của Đảng ta, là
nội dung quan trọng của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Về phương hướng đối với các thành phần kinh
tế, văn kiện nêu rõ: Khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp kinh doanh. Có
chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất
lượng, thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đây là lần đầu tiên, Đảng đặt vấn đề khuyến khích đẩy mạnh
quá trình khởi nghiệp kinh doanh, đó là kết quả của quá trình tổng kết thực
tiễn trong nước và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước phát triển trên thế
giới.
Đối với doanh nghiệp nhà nước: Tập trung vào
những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an
ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không
đầu tư. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công
ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý
nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; sớm xóa bỏ
chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, UBND đối với vốn, tài sản
nhà nước tại các doanh nghiệp. Chủ trương này thể hiện thái độ kiên quyết của
Đảng, chuyển sang kinh tế thị trường, khắc phục tư tưởng trông chờ, không phân
định rõ chức năng kinh doanh và chức năng phục vụ dẫn đến tình trạng thua lỗ
kéo dài của một số doanh nghiệp nhà nước.
Đối với kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã: Tiếp
tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa
trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế
thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào
tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị
trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và
phát huy vai trò của kinh tế hộ. Rõ ràng, khi kinh tế hộ càng phát triển thì
nhu cầu liên kết để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm càng cần thiết, điều này phản
ánh tính chất khách quan của sản xuất hàng hóa.
Đối với kinh tế tư nhân: Hoàn thiện cơ chế,
chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu
hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư
nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Từ chỗ chúng ta không thừa nhận
sự tồn tại của kinh tế tư nhân, coi đó là nguồn gốc dẫn đến sự hình thành chủ
nghĩa tư bản, đến nay chúng ta coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đây là bước tiến dài trong nhận thức lý
luận của Đảng ta, là kết quả tổng kết thực tiễn của 30 năm đổi mới.
Đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Chú
trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ
sản phẩm; chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư
nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong
chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước.
Ngoài các thành phần kinh tế cơ bản nêu trên,
văn kiện còn khẳng định: Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp.
Về chủ trương quản lý chung, văn kiện xác
định: Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế, cần phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng thời kiểm tra, giám
sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu
cực.
Như vậy, văn kiện Đại hội XII của Đảng có
nhiều nhận thức mới đối với các thành phần kinh tế, nhất là vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước, vai trò trở thành động lực của nền kinh tế đối với kinh tế tư
nhân, quan điểm lựa chọn tiếp nhận kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và quan tâm
hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp… Những điểm mới nêu trên cần
được nhận thức đầy đủ và sớm đưa vào thực tiễn cuộc sống.
nvthu-skhcn
Theo: http://www.baolaocai.vn