NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VỀ VĂN HÓA XÃ HỘI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC HMÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÀO CAI
Cơ quan thực hiện: Ban Dân vận Tỉnh ủy
Thời gian thực hiện: Từ 7/2012-12/2013
Kết quả xếp loại: Khá
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để đánh giá đúng thực trạng tình hình triển khai thực hiện các chương trình, dự án cần phải dựa trên các phương pháp khoa học, khách quan để xem xét về những vấn đề liên quan, đề xuất những giải pháp khả thi để tổ chức thực hiện hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Mông; Đặc biệt, cần có sự nghiên cứu một cách đầy đủ toàn diện về đời sống kinh tế - xã hội của người Mông, đánh giá được thực trạng đồng bào dân tộc Mông ở tỉnh Lào Cai trên các mặt: đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; xác định nguyên nhân những mặt tích cực, hạn chế thực trạng đời sống kinh tế - xã hội đồng bào dân tộc Mông tỉnh Lào Cai hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc Mông tỉnh Lào Cai.
II. MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP
1. Mục tiêu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về sự phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông.
- Đánh giá tình hình thực hiện các chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông, qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư vùng đồng bào Mông sinh sống.
- Xác định nguyên nhân những mặt tích cực, hạn chế thực trạng đời sống kinh tế - xã hội đồng bào dân tộc Mông tỉnh Lào Cai hiện nay.
- Xác lập sự phân bố người Mông trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc Mông tỉnh Lào Cai.
2. Nội dung:
- Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, vấn đề lao động việc làm, công tác cán bộ, hệ thống chính trị, an ninh nông thôn, thực trạng đầu tư phát triển công nghệ hạ tầng vùng đồng bào dân tộc Mông.
- Nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, của tỉnh Lào Cai đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và hiệu quả các chính sách đó.
- Thông qua nghiên cứu lý luận, điều tra, khảo sát, điền dã tại địa phương tìm nguyên nhân chủ quan và khách quan những yếu tố tác động sự phát triển KT-XH đồng bào Mông ở Lào Cai.
- Nghiên cứu thực tế một số vùng đồng bào người Mông ở Sơn La, Yên Bái và Hà Giang về phát triển kinh tế và công tác cán bộ.
- Nghiên cứu xây dựng những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế xã hội, nâng cxao đời sống đồng bào dân tộc Mông trên địa bàn tỉnh Lào Cai trong thời gian tơi.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu so sánh đối chiếu
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử và lôgic học
- Phương pháp nghiên cứu đồng đại và lịch đại
- Phương pháp thu thập, xử lý thông tin: Trên cơ sở thu thập, phân tích những tài liệu đã công bố, kế thừa được kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã xây dựng bộ công cụ điều tra khảo sát gồm 13 mẫu phiếu với tổng số 1650 phiếu và tiến hành điều tra, thu thập các thông tin về các tập quán và nếp sống tại 20 xã, phường nhằm tìm hiểu nhận thức và niềm tin của người dân trước những tập quán của cộng đồng.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
1. Thực trạng về kinh tế vùng đồng bào Mông
Trồng trọt: Đồng bào dân tộc Mông chủ yếu canh tác trên diện tích lúa nước (ruộng bậc thang 01 vụ), diện tích nương trồng ngô, đỗ. Phỏng vấn tại 1.757 hộ tại 19 xã dân tộc Mông thực hiện đề tài khoa học năm 2012 cho thấy, đã có 1.740/1.757 hộ đưa giống lúa mới, ngô mới có năng suất cao, có giá trị kinh tế vào sản xuất chiếm 93,34%. Tại 45 thôn bản khảo sát, đã có 42 mô hình sản xuất nông, lâm nghiệp, 1.870 lượt người được tập huấn kỹ thuật về sản xuất; 1.044 lượt hộ được hỗ trợ máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến sản phẩm; 4.440 lượt hộ được hỗ trợ vật tư sản xuất nông, lâm nghiệp, khai hoang mới diện tích lúa nước, duy trì và mở rộng diện tích thâm canh lúa, ngô hàng hóa, hình thành vùng thảo quả, chuối, dứa, cây ăn quả, thuốc lá, đậu tương cao sản, chè, sắn; bước đầu một số thôn bản có người Mông sinh sống được quy hoạch trồng cây cao su... Số hộ có nguyện vọng vay vốn hỗ trợ sản xuất ngày càng tăng, đã có 68,86% số hộ sử dụng các nguồn vốn vay để phát triển sản xuất.
Chăn nuôi: Khảo sát, phỏng vấn ở 1757 hộ (tại 19 xã khảo sát thực hiện đề tài năm 2012) đàn đại gia súc có 10.078 con (trâu 8.282, bò 993, ngựa 803) trung bình mỗi hộ có 1,25 con. Đàn lợn 19.980 con, trung bình mỗi hộ có 2,48 con. Trên 80.000 con gia cầm, trung bình mỗi hộ có khoảng 15 con.
Về lâm nghiệp: Diện tích đất lâm nghiệp và rừng ở Lào Cai chiếm 79,67 % diện tích đất tự nhiên (336.210,6 ha), hơn 80% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, sống nhờ vào nguồn tài nguyên rừng. Thực hiện Chỉ thị 38 của Chính phủ, tỉnh Lào Cai đã rà soát xong và cắm 4.946 mốc giới các loại rừng theo mục đích sử dụng, qua đó đã chuyển hơn 200 nghìn ha đất lâm nghiệp và rừng phòng hộ ít xung yếu phục vụ phát triển rừng sản xuất. Tính đến 2012, Lào Cai đã cơ bản giao xong 286 nghìn ha đất lâm nghiệp cho hơn 50 nghìn hộ gia đình và 15 tổ chức nhận khoanh nuôi bảo vệ và trồng rừng kinh tế. Qua hai năm thực hiện đề án chuyển đổi nương rẫy sang trồng rừng kinh tế, gần 400 hộ nông dân vùng cao, vùng sâu thuộc ba huyện nghèo (diện chương trình 30a và có đông đồng bào Mông) là Mường Khương, Bắc Hà và Si Ma Cai đã chuyển đổi được 350 ha nương rẫy sang trồng rừng bằng các loại cây bản địa có khả năng thích nghi cao, ngoài thân gỗ còn cho thu quả, hạt để bán ra thị trường như trám, sơn tra (táo mèo), trẩu, tre măng Bát Ðộ đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Thương mại, dịch vụ: Phát triển thương mại - dịch vụ, du lịch vùng đồng bào dân tộc Mông bước đầu hình thành ở một số địa phương, như Hầu Thào, Lao Chải (Sa Pa), Bản Phố (Bắc Hà), Sín Chéng (Si Ma Cai). Ở một số xã, như: Bản Lầu (Mường Khương), Phong Niên (Bảo Thắng), Lùng Phình (Bắc Hà), các hộ tự mua, hoặc góp vốn mua ô tô tải làm phương tiện vận tải vật liệu, nông sản cho gia đình và bà con trong vùng. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực tiềm năng chưa được khai thác phát triển ở vùng đồng bào dân tộc Mông.
2. Thực trạng kết cấu hạ tầng
Trên phạm vi toàn tỉnh (462 thôn bản có trên 90% dân tộc Mông) mới có 11,9% thôn bản được đầu tư đường nhựa, 35,28% thôn bản có đường cấp phối, 228 thôn bản làm đường đất, chiếm 49,36%; còn 16 thôn bản chưa có đường liên thôn, đi lại bằng đường mòn chiếm 3,46%. Tại 45 thôn, bản được khảo sát cho thấy, số hộ có xe máy chiếm 72,90%.
Công trình thủy lợi được bê tông hóa, toàn tỉnh đạt tỷ lệ 69,8%, chủ động tưới tiêu được 86,16% diện tích lúa, cơ bản đáp ứng yêu cầu cho sản xuất và dân sinh. Tổng chiều dài kênh mương được kiên cố hiện nay có 843 km góp phần thực hiện tiêu chí nông thôn mới về thủy lợi, toàn tỉnh có 120 xã/144 xã đạt tiêu chí, còn 110 thôn bản vùng dân tộc Mông chưa được đầu tư thủy lợi (chiếm 24%). Tại 19 xã được khảo sát đã có 15.870m kênh mương được cứng hóa, chiếm 83,63% góp phần chủ động tưới tiêu, giảm thất thoát nước và công sức nạo vét, tu sửa của nhân dân, hỗ trợ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định đời sống nhân dân và bước đầu có sản phẩm bán ra thị trường.
Việc phát sóng qua vệ tinh VINASAT1 đã phủ kín 100% địa bàn. Số giờ phát sóng tiếng dân tộc năm 2012 là 1700 giờ; năm 2013 là 2700 giờ. Tỷ lệ hộ dân có thiết bị xem truyền hình 79%; Tỷ lệ hộ dân được xem truyền hình Việt Nam 87%; xem truyền hình Lào Cai 65%; Tỷ lệ hộ dân được nghe đài Tiếng nói Việt Nam 97%, Tỷ lệ hộ dân được nghe phát thanh địa phương 98%. Khảo sát tại 19 xã cho thấy có 3204 hộ dân tộc Mông được xem truyền hình chiếm 77,50%, 3315 hộ được nghe đài Tiếng nói Việt Nam, đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh chiếm 80,18%. Đến hết năm 2012, toàn tỉnh có 131 xã có điểm bưu điện văn hóa xã, 912 trạm phát sóng di động, 85% thôn bản được phủ sóng điện thoại di động đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại, internet của nhân dân.
Qua kết quả khảo sát tính đến năm 2012, 164 xã, phường, thị trấn toàn tỉnh có điện (đạt tỷ lệ 100%); 1869/2187 thôn bản có điện (đạt tỷ lệ 85,5%); 120.715/138.082 hộ nông thôn được sử dụng điện (đạt tỷ lệ 87,4%). Tại khu vực nông thôn có 143/143 xã có điện (đạt tỷ lệ 100%); 1344/1671 thôn bản có điện (đạt tỷ lệ 80,4%); 120.715/138.082 hộ được sử dụng điện (đạt tỷ lệ 83,5%). Thời điểm tháng 4/2014, toàn tỉnh còn 261 thôn bản chưa có điện. Số hộ đồng bào Mông được sử dụng điện lưới là 16.530 hộ chiếm 67,61%.
Những năm gần đây được Nhà nước đầu tư cho nhiều thôn bản người Mông đã có hệ thống nước sinh hoạt bảo đảm vệ sinh, như xây bể nước, lu nước. Năm 2010, tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh 83,82%, đến năm 2012, tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh chỉ đạt 80,14% (Thành thị 87,88%; nông thôn 77,24%). Trong đó, có 16.290 hộ dân tộc Mông được cấp nước sinh hoạt chiếm 66,62%. Nhiều công trình nước đã được đầu tư hoạt động kém hiệu quả (chỉ huyện Sa Pa tính đến tháng 7/2014, trên địa bàn huyện có 140 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, trong đó: 27 công trình hoạt động tốt, 94 công trình hoạt động kém, 19 công trình hỏng hoàn toàn.
Về tỷ lệ hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh toàn tỉnh, năm 2010 là 55,88 % (thành thị 75,85%; nông thôn 44,92%); năm 2012 là 55,30% (thành thị 100%; nông thôn 34,49%). Số hộ đồng bào Mông chưa làm và sử dụng hố xí hợp vệ sinh còn 58,67% (số liệu tại địa bàn khảo sát).
3. Thực trạng văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông
Về Giáo dục: Tại các xã có đông người Mông, tỷ lệ huy động học sinh dân tộc Mông đến trường, bậc học mầm non đạt 90%; tiểu học, đạt 98%; THCS, đạt 97%. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc Mông được triển khai tại một số trường mầm non, tiểu học thuộc 4 huyện Bắc Hà, Si Ma Cai, Sa Pa và Mường Khương. Đội ngũ giáo viên dân tộc Mông trên địa bàn từng bước được tăng cường. Năm 2003 có 176 giáo viên, (chiếm 1,72%); năm 2012 có 409 giáo viên dân tộc Mông, chiếm 2,45% tổng số giáo viên toàn nghành. Năm 2003 có 65 giáo viên có trình độ cao đẳng, đại học; năm 2012có 223 giáo viên có trình độ cao đẳng, đại học và 03 giáo viên có trình độ trên đại học.
Lễ hội truyền thống: Các lễ hội truyền thống của đồng bào Mông được giữ gìn và phát huy. Đặc biệt lễ hội Gầu tào, hội thi múa khèn, thổi sáo, đàn môi … được duy trì tổ vào các lễ hội đầu năm ở vùng đồng bào Mông. Tuy nhiên, một bộ phận giới trẻ, đang mất dần nét văn hóa đặc trưng truyền thống: về trang phục mặc váy áo, cách điệu được may sẵn từ các hoa văn của người Trung Quốc; ở vùng đồng bào theo các tôn giáo việc thờ cúng tổ tiên, hát dân ca, múa khèn, thổi sáo trong các lễ hội dân tộc Mông gần như không còn.
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, thôn bản văn hóa: Các thôn bản đều triển khai xây dựng hương ước, quy ước xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Tại 19 xã được phỏng vấn, khảo sát đã có 2.858 hộ đạt tiêu chí Gia đình văn hóa năm 2012; 2.234 hộ đạt tiêu chí Gia đình văn hóa 3 năm liên tục. Khảo sát tại 45 thôn bản, việc cấp phát báo chí không thu tiền đều thông qua trưởng thôn. Có 72 hộ có người thường xuyên đọc báo, chiếm 4,09%; 860 hộ có người thỉnh thoảng đọc, chiếm 49%; 825 hộ không quan tâm đến việc đọc báo, chiếm 47%.
Về cải tạo tập quán lạc hậu: Các địa phương thực hiện khá nghiêm túc Chỉ thị 27-CT/TW, ngày 12/10/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII); Chỉ thị 14/CT-TTg ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định 305/2002/QĐ-UB ngày 26/7/2002 của UBND tỉnh Lào Cai về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Qua khảo sát tại 1757 hộ gia đình ở 45 thôn bản, năm 2012 có 320 đám cưới, trong đó thực hiện đúng nếp sống văn hóa đạt 92,21%; còn 25 đám cưới tảo hôn, chiếm 7,79%. Về đám tang, năm 2012 có 95 đám tang, trong đó thực hiện tốt quy định về nếp sống văn hóa 84 đám, chiếm 88,42%. 100% các đám tang của người Mông tại các thôn bản được khảo sát đã cho người chết vào áo quan để chôn cất, còn một số trường hợp để quá thời gian. Về việc làm và sử dụng các công trình vệ sinh, tại thời điểm khảo sát tại 1.757 hộ, có 40 hộ sử dụng hố xí tự hoại chiếm 2,27%; 686 gia đình sử dụng các loại hố xí khác chiếm 39,04%, còn lại 58,67% hộ gia đình chưa làm và sử dụng hố xí.
Mạng lưới y tế: Đến nay, toàn tỉnh có 7,95 bác sĩ trên một vạn dân; 100% xã, phường có trạm y tế và y sĩ đa khoa, 34/164 trạm y tế có bác sỹ; 95,6% thôn bản có nhân viên y tế, cơ bản đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Cán bộ y tế người Mông có 145/3.928 cán bộ, y, bác sỹ toàn ngành, chiếm 3,7%. Tại 45 thôn bản cho thấy, 100% thôn bản có y tế thôn và cộng tác viên dân số, 23/45 thôn bản có bà đỡ thôn bản. Đội ngũ y, bác sĩ còn thiếu về số lượng và chất lượng, nhất là cán bộ y tế dân tộc Mông (số Bác sĩ DT Mông có 17 người tăng 14 người so với năm 2004; y tá, y sĩ, kỹ thuật viên là 128 người tăng 58 người; so với cán bộ, y, bác sỹ toàn ngành, cán bộ DT mông có 145/3928, đạt 3,7%). Ở 32 xã có trên 90% dân tộc Mông có 07 bác sỹ, trong đó có 01 bác sỹ người Mông. Chính sách thu hút cán bộ y, bác sĩ về Trạm y tế xã vùng đồng bào dân tộc Mông chưa đảm bảo thu hút, động viên an tâm công tác.
Công tác chăm sóc sức khỏe: Hàng năm 100% đồng bào dân tộc Mông vùng khó khăn, được cấp bảo hiểm y tế miễn phí; Phụ nữ Mông sinh đẻ có sự hỗ trợ của y tế, đạt trên 50%. Trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt trên 95%, nhân dân ốm đau được đưa đến cơ sở y tế khám và điều trị, các hủ tục mê tín, dị đoan trong đau ốm cơ bản được xóa bỏ.
Dân số và gia đình: Công tác dân số gia đình và trẻ em được chú trọng, 100% thôn bản có cộng tác viên dân số, đẩy mạnh truyền thông dân số, thực hiện nhiều biện pháp kế hoạch giảm được tỷ lệ sinh. Qui mô hộ gia đình người Mông trung bình toàn tỉnh là 5,48 người; ở các xã có trên 90% dân tộc Mông là 5,7 người/hộ; một số xã có qui mô hộ gia đình trung bình cao, như Lao Chải (Sa Pa) 6,27 người/hộ, Sàng Ma Sáo (Bát Xát) 6,19 người/hộ; xã có qui mô hộ gia đình trung bình thấp hơn, như Sín Chéng (Si Ma Cai) có 708 hộ, 3769 khẩu, trung bình 5,32 người/hộ.
Về nhà ở: Khảo sát tại 1.757 hộ gia đình năm 2012, số nhà kiên cố chiếm tỷ lệ 4,44%, nhà cấp IV chiếm 7,05%, nhà gỗ - nhà trình tường 1190 chiếm 63,74%, nhà đơn sơ 357 chiếm 20,32%, (tỷ lệ nhà đơn sơ toàn tỉnh năm 2009 là 18,1%) còn 08 hộ chưa có nhà ở chiếm 0,45% (chủ yếu do tách hộ, chờ làm nhà).
Mức sống và thu nhập: Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào Mông tuy được cải thiện, nhưng nhìn chung còn thấp kém, tỷ lệ đói, nghèo cao. Thu nhập bình quân đầu người dân tộc Mông 4,67 triệu đồng/năm, tăng 3 lần so với năm 2004, thấp so với thu nhập bình quân toàn tỉnh 16 triệu đồng . Tỷ lệ đói nghèo, chiếm 39% so với tổng số hộ nghèo toàn tỉnh và chiếm 55,95% so với dân số người Mông (năm 2012). Khảo sát, phỏng vấn tại 1.757 hộ gia đình cho thấy: hộ khá, giàu 16,67%, hộ cận nghèo 25,44%, hộ nghèo 57,88%. Qua đó cho thấy, kết quả giảm nghèo vùng đồng bào Mông còn chậm và chưa vững chắc.
4. Thực trạng chính trị, an ninh, quốc phòng vùng đồng bào dân tộc Mông
Đặc điểm Lào Cai là một tỉnh miền núi biên giới có gần 200 km đường biên tiếp giáp với Trung Quốc, có mạng lưới giao thông thuận lợi với hệ thống đường sắt, đường bộ và đường thủy; địa hình rừng núi hiểm trở có nhiều lối mở, lối tắt, là địa bàn hoạt động của tội phạm xuyên quốc gia, nhất là tội phạm mua bán người, tội phạm ma túy.
Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa còn thấp, nhận thức và hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Đời sống kinh tế của đồng bào Mông so với các dân tộc khác rất khó khăn. Đồng bào bản chất thật thà, chất phác dễ bị lợi dụng lừa gạt, dễ trở thành nạn nhân của chúng, nhất là phụ nữ và trẻ em. Trong đồng bào còn tồn tại nhiều tập quán lạc hậu.
Công tác tuyên truyền vận động quần chúng, giáo dục pháp luật chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, thiếu sâu sát với quần chúng. Công tác quản lý địa bàn còn lỏng lẻo.
Âm mưu của các thế lực thù địch không ngừng chống phá cách mạng Việt Nam, triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, đặc biệt là lợi dụng đồng bào Mông để lôi kéo kích động vào các hoạt động gây mất ổn định về an ninh chính trị.
5. Đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc Mông
Sau 5 năm thực hiện Thông báo kết luận số 64-TB/TW và các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số; nhận thức trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, các ngành, Mặt trận, đoàn thể các cấp về công tác dân tộc được nâng lên, sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.
Tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế chính sách ưu tiên đối với vùng đặc biệt khó khăn, cùng với sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, các ngành, các cấp và nhân dân các dân tộc, đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông tỉnh Lào Cai đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Kết cấu hạ tầng được cải thiện một bước, đời sống của đồng bào từng bước được cải thiện nâng lên. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo được quan tâm, bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc được giữ gìn, phát huy; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, quốc phòng an ninh được giữ vững. Hoạt động tôn giáo ở các điểm nhóm cơ bản theo quy định pháp luật.
6. Giải pháp phát triển Kinh tế - Xã hội vùng dân tộc mông
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận và các Hội, đoàn thể trong phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông.
Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động đồng bào Mông đến năm 2020.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội.
Nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và công tác cán bộ.
Về phát triển văn hóa - xã hội.
Đảm bảo an ninh - quốc phòng.
IV. KẾT LUẬN
Vùng núi Lào Cai là nơi cư trú truyền thống, chủ yếu của đồng bào Mông và các dân tộc thiểu số khác. Đây là một trong những vùng có vị trí quan trọng về chiến lược trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ số liệu đã được công bố, các tác giả đề tài đã xác định sự phân bố của đồng bào Mông ở 9 huyện, thành phố, theo mật độ dân số, chủ yếu đồng bào sinh sống ở các huyện vùng cao, đặc biệt khó khăn (Sa Pa, Si Ma Cai, Bắc Hà, Bát Xát), tập trung ở vùng nông thôn; phân theo các ngành Mông.v.v.
Do điều kiện khí hậu, thời tiết, địa hình có độ chia cắt lớn… nên đời sống của đồng bào gặp rất nhiều khó khăn. Đối tượng thuộc diện chính sách khá lớn, khả năng tích lũy kinh tế từ hộ gia đình để tái đầu tư phát triển sản xuất còn rất hạn chế.
Kết quả sau hơn 20 năm tái lập tỉnh, phấn đấu tích cực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc, cùng với sự đầu tư tích cực của tỉnh, Trung ương và các tổ chức quốc tế, nền kinh tế xã hội toàn vùng đã có biến đổi sâu sắc, toàn diện, đã đem lại hiệu quả nhiều mặt: chính trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng an ninh. Trong đó có đóng góp quan trọng của các chính sách và chương trình giành cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào Mông, bao gồm bảy nhóm giải pháp, về: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận và các Hội, đoàn thể trong phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông; Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động đồng bào Mông đến năm 2020; Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội; Nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và công tác cán bộ; Về phát triển văn hóa - xã hội và Đảm bảo an ninh - quốc phòng. Đồng thời, xác định hai lĩnh vực cần đột phát là phát triển kết cấu hạ tầng (đặc biệt là giao thông) và phát triển nguồn nhân lực./.